Đặt vấn đề : Theo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (công bố tháng 7 năm 2017), và Chương trình giáo dục phổ thông các môn học (Ban hành theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018), ngoài nội dung các môn học cơ bản, các lớp ở tiểu học còn có nội dung “Hoạt động thực hành và trải nghiệm”.
Việc tổ chức hoạt động trải nghiệm (HĐTN) ở tiểu học là vấn đề đang được nhiều giáo sinh, giáo viên tiểu học và giảng viên quan tâm. Qua tìm hiểu, nghiên cứu thông qua các đợt thực tế phổ thông, thực tập sư phạm, hội thi nghiệp vụ sư phạm của sinh viên, trao đổi với các giảng viên, giáo viên tiểu học và chuyên gia giáo dục, cho thấy: việc tổ chức hoạt động trải nghiệm của sinh viên và giáo viên tiểu học đang gặp khó khăn, lúng túng từ lý luận đến thực tiễn.
Nguyên nhân là do HĐTN là nội dung dạy học mới được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông, hơn nữa giáo sinh trước khi đi thực tập sư phạm còn bỡ ngỡ trong việc thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm.
Làm thế nào để tổ chức HĐTN ở Tiểu học đạt kết quả tốt ? Để trả lời câu hỏi này, theo chúng tôi, trước hết nên tìm hiểu Hoạt động trải nghiệm ở tiểu học là gì ?
- Khái quát về hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
1.1. Hoạt động trải nghiệm ở tiểu học trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
Theo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, công bố tháng 7 năm 2017, “Hoạt động trải nghiệm ở tiểu học là các hoạt động giáo dục bắt buộc, trong đó học sinh dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục.
Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người thiết kế và tổ chức các hoạt động cho chính mình, qua đó tự khám phá, điều chỉnh bản thân, điều chỉnh cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống để sinh hoạt và làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm. Học sinh cũng bắt đầu xác định được năng lực, sở trường và chuẩn bị một số năng lực cơ bản của người lao động tương lai và người công dân có trách nhiệm”.
Nội dung giáo dục ở cấp
Tiểu học bao gồm 11 môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc. Tất cả các lớp của
cấp học đều có là: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Giáo dục thể chất, Nghệ
thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), Hoạt động trải nghiệm.
Như vậy, cần xác định rõ nội hàm của khái niệm này:
– Một là: Vai trò, vị trí của hoạt động trải nghiệm ở tiểu học “là các hoạt động giáo dục bắt buộc” giống như một môn học khác trong trường tiểu học.
– Hai là: Con đường để học sinh hình thành phẩm chất và năng lực là “dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau”.
– Ba là: Mục tiêu cơ bản của HĐTN là “để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng”.
– Bốn là: Quan điểm tổ chức HĐTN cho học sinh xuất phát từ quan điểm cho rằng dạy học thông qua hoạt động và bằng hoạt động, đồng thời trong khi học HS phải được trải nghiệm những điều đã được học trong nhà trường.
1.2. Mục tiêu của hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
Hoạt động trải nghiệm ở tiểu học nhằm hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống và các kỹ năng sống khác.
Cụ thể, Chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ hình thành và phát triển cho học sinh 5 phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Chương trình cũng hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung, được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Những năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng lực đặc biệt (năng khiếu) của học sinh.
- Nội dung của hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
Nội dung cơ bản của chương trình Hoạt động trải nghiệm xoay quanh các mối quan hệ giữa cá nhân học sinh với bản thân; giữa học sinh với người khác, cộng đồng và xã hội; giữa học sinh với môi trường; giữa học sinh với nghề nghiệp. Nội dung này được triển khai qua 4 nhóm hoạt động chính: Hoạt động phát triển cá nhân; Hoạt động lao động; Hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng.
Nội dung Hoạt động trải nghiệm được phân chia theo hai giai đoạn. a) Giai đoạn giáo dục cơ bản: hình thành các phẩm chất, thói quen, kỹ năng sống,… thông qua sinh hoạt tập thể, câu lạc bộ, tham gia các dự án học tập, các hoạt động xã hội, thiện nguyện, hoạt động lao động,… Ở tiểu học, nội dung hoạt động tập trung nhiều hơn vào các hoạt động phát triển bản thân, các kỹ năng sống, kỹ năng quan hệ với bạn bè, thầy cô và những người thân trong gia đình. Bên cạnh đó, các hoạt động lao động, hoạt động xã hội và làm quen với một số nghề gần gũi với học sinh cũng được tổ chức thực hiện”. b) Giai đoạn tiếp theo là giáo dục định hướng nghề nghiệp: Ở giai đoạn này, mỗi học sinh cũng bắt đầu xác định được năng lực, sở trường và chuẩn bị một số năng lực cơ bản của người lao động tương lai và người công dân có trách nhiệm.
Cụ thể, nội dung giáo dục ở cấp Tiểu học bao gồm 11 môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, cụ thể là:
– Lớp 1 và lớp 2: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), Hoạt động trải nghiệm và 2 môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 1
– Lớp 3: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Ngoại ngữ 1, Tự nhiên và Xã hội, Tin học và Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), Hoạt động trải nghiệm.
– Lớp 4 và lớp 5: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Ngoại ngữ 1, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Tin học và Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), Hoạt động trải nghiệm.
Như vậy các môn mà tất cả các lớp của cấp học đều có là: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật), Hoạt động trải nghiệm.
- Phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
Hoạt động trải nghiệm được tổ chức trong và ngoài lớp học, trong và ngoài trường học; theo quy mô nhóm, lớp học, khối lớp hoặc quy mô trường; với các hình thức tổ chức chủ yếu: thực hành nhiệm vụ ở nhà, sinh hoạt tập thể (sinh hoạt dưới cờ; sinh hoạt lớp; sinh hoạt Sao Nhi đồng, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam,…), dự án, làm việc nhóm, trò chơi, giao lưu, diễn đàn, hội thảo, tổ chức sự kiện, câu lạc bộ, cắm trại, tham quan, khảo sát thực địa, thực hành lao động, hoạt động thiện nguyện.
– Trường tiểu học quyết định lựa chọn những nội dung, hình thức hoạt động trong chương trình phù hợp với điều kiện của nhà trường và địa phương. Hoạt động trải nghiệm của mỗi lớp do giáo viên chủ nhiệm phụ trách, thực hiện theo kế hoạch của nhà trường. Tùy từng hoạt động cụ thể, giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên môn học, cán bộ phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, cha mẹ học sinh để tổ chức các hoạt động này. Giáo viên và nhà trường cũng cần báo cáo chính quyền địa phương, phối hợp với các tổ chức, cá nhân trong xã hội để hướng dẫn học sinh tham gia các hoạt động lao động công ích, thiện nguyện.
2. Đề xuất cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm ở tiểu học theo quan điểm hoạt động
ĐVĐ: Tổ chức HĐTN ở tiểu học theo quan điểm hoạt động là vấn đề mới, phong phú, phức tạp, sẽ góp phần làm rõ hơn lí luận và thực tiễn về tổ chức HĐTN, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho GV phổ thông hiện nay.
Để tổ chức HĐTN ở tiểu học theo quan điểm hoạt động, chúng tôi nghiên cứu và áp dụng quan điểm dạy học thông qua hoạt động và bằng hoạt động – một trong những thành tựu về lí luận dạy học hiện nay như sau:
- Quan điểm dạy học thông qua hoạt động và bằng hoạt động
Triết học, Tâm lý học dạy học và Giáo dục dục học khẳng định:
– Thứ nhất: “Không có hoạt động, thì không có sự phát triển nhân cách”, do đó, dạy học phải thông qua hoạt động và bằng chính các hoạt động của học sinh.
– Thứ hai: Dạy học và tri thức khoa học có bản chất hoạt động. Đối tượng hoạt động học tập – tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…, bao hàm trong bản thân nó phương thức tồn tại và phát triển của nó, cho nên “muốn chiếm lĩnh một đối tượng phải thực hiện trọn vẹn các một hành động theo phương thức tồn tại và vận động của chính đối tượng ấy”.
– Thứ ba: “Hoạt động học tập của học sinh có cơ cấu tâm lý giống như hoạt động sống của con người”, nghĩa là nó phải xuất phát từ động cơ, mục đích rõ ràng, phải được thực hiện thông qua hành động, thao tác và kiểm soát được. Cuối cùng phải tạo ra sản phẩm của hoạt động đó là phẩm chất và năng lực của học sinh.
Do đó, dạy học thực chất là tổ chức hoạt động học cho học sinh, tạo ra cái mới chưa hề có ở các em bằng phương pháp nhà trường.
- Đề xuất cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
Để tổ chức HĐTN ở tiểu học, chúng ta phải quán triệt 2 vấn đề mấu chốt sau đây.
2.2.1. Cơ sở khoa học để tổ chức hoạt động trải nghiệm ở tiểu học thông qua hoạt động học tập
a)Dạy học chính là quá trình tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh
Lý luận dạy học khẳng định rằng, dạy học chính là quá trình tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh để người học được hoạt động và lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, từ đó hình thành và phát triển phẩm chất (Đức) và năng lực (Tài) cho người học. Quá trình dạy học vừa tạo ra sự phát triển tâm lí và vừa tạo ra điều kiện cho sự phát triển các hoạt động có đối tượng khác. Chính vì thế dạy học là quá trình tổ chức và điều khiển hoạt động của trò nhằm chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng và hình thành nhân cách của chính trò.
b)Tổ chức một hoạt động học tập của học sinh theo cơ cấu của hoạt động tâm lý
Theo Tâm lý học dạy học hiện đại, hoạt động học tập có cấu trúc chung của một hoạt động của con người, nghĩa là nó phải có đủ các thành tố. Về phía chủ thể hoạt động (Học sinh) phải có đủ: Hoạt động học, Hành động học và Thao tác học. Về phía đối tượng hoạt động (Nội dung học…mà người học cần chiếm lĩnh), phải có: Động cơ học tập, Mục đích – Nhiệm vụ học tập, Phương tiện học tập.
Theo Tâm lý học hoạt động, con người học trong hoạt động và bằng hoạt động. Hoạt động học là khái niệm chính được dùng để chỉ hoạt động học diễn theo cách đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành và phát triển năng lực người học. Hoạt động học là một quá trình, có cấu trúc tâm lý, bao gồm các thành tố cơ bản: Động cơ học, mục đích học, phương tiện học, hành động học, thao tác học, kết quả học tập, điều chỉnh,..
Tổ chức hoạt động TN cho học sinh theo quan điểm hoạt động học tập chính là tổ chức nó dưới dạng một hoạt động học tập, do đó nó phải có đầy đủ các thành tố của một hoạt động tâm lí, diễn ra trong đời sống thực của HS. HS thông qua việc thực hiện các hoạt động học dưới sự tổ chức, điều khiển (hoặc tự điều khiển) của GV mà tự khám phá, kiến tạo tri thức, hình thành và phát triển thái độ, năng lực một cách chủ động, sáng tạo.
– Động cơ của hoạt động TN: Theo thuyết tâm lý hoạt động, những đối tượng nào được phản ánh vào đầu óc con người mà có tác dụng thúc đẩy hoạt động, xác định phương hướng hoạt động để thỏa mãn nhu cầu nhất định thì được gọi là động cơ hoạt động. Khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện động cơ học tập.
Do đó, động cơ của hoạt động TN được thể hiện ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và năng lực… mà giáo dục đem lại. Hoạt động TN của học sinh được thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Các động cơ này tạo thành cấu trúc xác định có thứ bậc của các kích thích, trong đó có một số động cơ là chủ đạo, cơ bản, một số động cơ khác là phụ, là thứ yếu.
– Mục đích của hoạt động TN về cơ bản là: Kiến thức, kỹ năng cần chiếm lĩnh, thái độ cần hình thành và năng lực cần có để phục vụ cuộc sống.
– Phương tiện của hoạt động TN: Là các thao tác học (Thao tác vật chất: Đo, ghi chép, vẽ, nghe, nhìn…, Thao tác tinh thần: Phân tích, tổng hợp, tưởng tượng, tương tự hóa ,khái quát hóa, cụ thể hóa, … ).
– Hoạt động TN chỉ có thể diễn ra trong một điều kiện: Không gian, thời gian, cơ sở vật chất (Tài liệu, phương tiện, mô hình, thiết bị đo đạc, tính toán; Phương tiện nghe nhìn..), môi trường tự nhiên và môi trường tâm lý nhất định.
2.2.2. Nguyên tắc thiết kế hoạt động trải nghiệm ở tiểu học theo quan điểm hoạt động
– Nghiên cứu thiết kế hoạt động TN cho HS theo tiếp cận hoạt động học tập là vấn đề mới, phong phú, phức tạp, sẽ góp phần làm rõ hơn lí luận về tổ chức các hoạt động TN, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho GV phổ thông hiện nay
Để thiết kế được một hoạt động TN theo quan điểm hoạt động có hiệu quả, GV ( hoặc người thiết kế) phải quán triệt các vấn đề mấu chốt sau đây:
– Căn cứ vào vị trí, vai trò, nhiệm vụ, tính chất của hoạt động TN; Mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp và nguyên tắc tổ chức hoạt động TN.
– Căn cứ vào bản chất hoạt động tâm lí của HS. Khi thiết kế hoạt động TN, phải hình thành: Động cơ, mục đích – nhiệm vụ và phương tiện hoạt động học tập cho HS. Các hoạt động phải được thiết kế rõ ràng, có thể lồng ghép nhưng phải tường minh, tránh mù mờ. Mỗi hoạt động đều phải giải quyết được trọn vẹn một vấn đề nào đó do nhu cầu đặt ra, hiển nhiên phải hình thành năng lực mới cho HS, nếu không sẽ chẳng giải quyết được vấn đề gì bởi vì: “Hoạt động nào cũng phải có động cơ, hành động nào cũng có mục đích, thao tác nào cũng phải có phương tiện”.
2.2.3. Đề xuất quy trình thiết kế hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
Căn cứ vào chương trình dạy học trải nghiệm ở tiểu học, căn cứ mục tiêu, nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, giáo viên có thể thiết kế hoạt động trải nghiệm, gồm 2 giai đoạn, theo lôgic như sau:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn thiết kế hoạt động trải nghiệm
– Bước 1: Tìm hiểu, nghiên cứu mục tiêu, nội dung dạy học trải nghiệm đã được quy định trong chương trình tiểu học, để xác định kiến thức, kĩ năng, phẩm chất, năng lực nào cần hình thành cho học sinh. (VD : năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất..).
Bước này có mục đích là để giáo viên có ý tưởng thiết kế và đặt tên hoặc chủ đề hoạt động trải nghiệm nào đó tương ứng với nội dung dạy học.
Ví dụ : Ở môn Toán lớp 4 : (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGD ĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT)
« – Hoạt động 1: Thực hành ứng dụng các kiến thức toán học vào thực tiễn và các chủ đề liên môn, chẳng hạn: – Thực hành các hoạt động liên quan đến tính toán, đo lường và ước lượng như: tính toán và ước lượng chu vi, diện tích, góc của một số hình phẳng trong thực tế liên quan đến các hình phẳng đã học; tính toán và ước lượng về khối lượng, dung tích,…; xác định năm, thế kỉ đánh dấu sự ra đời (diễn ra) của một số phát minh khoa học, sự kiện văn hoá – xã hội, lịch sử,…
Nội dung Yêu cầu cần đạt – Thực hành thu thập, phân tích, biểu diễn các số liệu thống kê (thông qua một số tình huống đơn giản gắn với những vấn đề phát triển kinh tế, xã hội hoặc có tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, giáo dục tài chính, chủ quyền biển đảo, biên giới, giáo dục STEM,…). – Thực hành mua bán, trao đổi tiền tệ.
– Hoạt động 2: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ chính khoá (ví dụ: trò chơi học toán hoặc các hoạt động “Học vui – Vui học”; trò chơi liên quan đến mua bán, trao đổi hàng hoá; lắp ghép, gấp, xếp hình; tung đồng xu, xúc xắc,…) liên quan đến ôn tập, củng cố các kiến thức toán hoặc giải quyết vấn đề nảy sinh trong tình huống thực tiễn.
– Hoạt động 3 (nếu nhà trường có điều kiện thực hiện): Tổ chức giao lưu với học sinh có năng khiếu toán trong trường và trường bạn ».
+ Xác định rõ mục tiêu hình thành phẩm chất, năng lực cho HS trong mỗi bài học, tiết học.
+ Xác định rõ mục tiêu nào là trọng tâm trong số các mục tiêu hình thành phẩm chất, năng lực (theo yêu cầu cần đạt trong chương trình).
+ Xác định rõ tình huống hoạt động trải nghiệm
Cần xác định rõ tình huống hoạt động thuộc loại nào, (VD: loại trải nghiệm sau khi hình thành quy tắc tính toán hay thực hành luyện tập…) để từ đó phân loại các dạng hoạt động thuộc loại khám phá hay hình thành kĩ năng, kĩ xảo, phẩm chất, năng lực gì cho HS.
Ví dụ: Sau khi học xong công thức tính diện tích hình chữ nhật, giáo viên cần cho HS hoạt động trải nghiệm khái niệm diện tích của mặt bàn học là thế nào.
Để từ đó thiết kế trò chơi : « Ai nhanh, ai giỏi » có nội dung xếp kẹo vào mâm có mặt hình tròn và hình chữ nhật.
Bước 2: Phân tích xác định rõ nguồn gốc sinh thành nên phẩm chất và năng lực cần hình thành ở học sinh
+ Xác định nguồn gốc phẩm chất và năng lực: Muốn xác định nguồn gốc sinh thành nên phẩm chất và năng lực (đối tượng cần chiếm lĩnh) ta phải trả lời được các câu hỏi : Vì sao, ở đâu, nảy sinh ra phẩm chất và năng lực ấy ?. Đây là căn cứ khoa học cho bước tiếp theo là phân giải khái niệm làm nên phẩm chất và năng lực.
Để đơn giản, ta gọi chung khái niệm làm nên phẩm chất, năng lực cho học sinh là khái niệm.
Một Khái niệm (hình thành nên phẩm chất và năng lực) gồm có hai hình thái:
* Hình thái vật chất: gồm các sự kiện, hiện tượng khách quan… gọi là vật liệu. Khái niệm chỉ có một nhưng vật liệu thì nhiều, ví dụ khái niệm “năng lực ngôn ngữ” là duy nhất, thuần khiết, nhưng ta có thể lấy nhiều ví dụ cụ thể về nó như: Năng lực nói, năng lực viết…
* Hình thái lôgic tồn tại: gồm các thuộc tính, tính chất, bản chất… để phân biệt khái niệm này với khái niệm khác (VD: Khái niệm Năng lực ngôn ngữ khác với Năng lực tính toán và Năng lực thể chất).
Chú ý: Hình thái lôgic tồn tại của khái niệm là duy nhất và thuần khiết. Phát hiện ra hình thái lôgic tồn tại của khái niệm là ta đã phát hiện ra nguồn gốc sinh thành ra nó (VD: Khái niệm năng lực ngôn ngữ, chẳng qua chỉ là tập hợp hệ thống các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cùng các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ khác có liên hệ và tác động qua lại với nhau của con người).
Bước 3: Phân giải khái niệm làm nên phẩm chất, năng lực thành lôgic cấu thành nó
Giáo viên căn cứ vào lôgic tồn tại của khái niệm phẩm chất, năng lực mà phân giải khái niệm ra thành các yếu tố cấu thành nó một cách tường.
VD: Phân giải khái niệm lòng yêu nước bao hàm lòng yêu quê hương, đất nước, Tổ quốc, yêu con người, gia đình, bè bạn, yêu truyền thống và văn hóa của dân tộc…
Cách làm như sau: Giáo viên đưa khái niệm đã có “trong nhận thức của mình” ra ngoài và phân chia/phân giải thành các yếu tố cấu thành khái niệm. Khi phân giải khái niệm nên nắm chắc nội hàm và ngoại diên của khái niệm, không được nhầm lẫn khái niệm.
Bước 4: Tuyến tính hoá cấu trúc lôgic của khái niệm
Cấu trúc lôgic của khái niệm (làm nên phẩm chất, năng lực) phải được tường minh hoá thành các việc làm cụ thể theo trật tự tuyến tính nghiêm ngặt về thời gian.
VD : Muốn hình thành năng lực ngôn ngữ thì phải học phát âm trước, sau đó học chữ viết, học nghĩa của từ, học ngữ pháp, thực hành nói thành câu, đoạn, bài luận vv.
Bước 5: Tìm vật liệu sư phạm để mô hình hoá, tường minh hoá cấu trúc lôgic tồn tại của khái niệm bằng sơ đồ, mô hình, ngôn ngữ công thức, quy tắc
– Khi đã có khái niệm làm nên phẩm chất, năng lực của học sinh, giáo viên nên mô hình hóa để dễ tổ chức trải nghiệm (VD: Mô hình hóa khái niệm lòng yêu nước bằng sơ đồ tư duy).
– Nên lựa chọn “vật liệu” (hiện tượng, sự vật các ví dụ) điển hình nhất để hình thành khái niệm (VD: Dạy học nhận dạng hình chữ nhật nên lựa chọn các vật như tấm bìa sách, mặt bảng…mà không chọn một mặt bàn vì có thể nó là hình vuông).
Chú ý: Bước này khó khăn nhưng rất quan trọng. Nếu không tìm được vật liệu sư phạm để tường minh hoá được lôgic tồn tại của khái niệm thì không thể tổ chức dạy học theo quan điểm hoạt động.
Bước 6. Thiết kế các hoạt động (việc làm) cụ thể tương thích với cấu trúc lôgic cấu thành khái niệm
Một hoạt động trải nghiệm làm ra sản phẩm là sự trải nghiệm của học sinh đối với một khái niệm làm nên phẩm chất, năng lực. Do đó, giáo viên nên căn cứ vào chuẩn phẩm chất và năng lực phải được hình thành để thiết kế các hoạt động trải nghiệm.
Để thiết kế một hoạt động, giáo viên nên tiến hành như sau:
– Trên cơ sở cấu trúc lôgic đã được tuyến tính hoá ở trên, ứng với mỗi thành phần cấu thành khái niệm giáo viên thiết kế thành một hoạt động cụ thể sao cho tương thích với cấu trúc nội dung khái niệm ấy.
– Mỗi hoạt động – việc làm được thiết kế thành một hoặc vài thao tác tuỳ theo cấu trúc lôgic ttuyến tính ở trên, đảm bảo không bỏ sót thao tác. Nếu bỏ sót thao tác sẽ không tạo ra sản phẩm trải nghiệm hoặc chỉ có sản phẩm lỗi.
– Mỗi thao tác lại phải thiết kế phương tiện cho nó đảm bảo tạo ra sản phẩm chắc chắn .
Như vậy: Mỗi việc làm là một hành động trải nghiệm, hoặc một vài thao tác trải nghiệm. Sau khi học sinh thực hiện một chuỗi các hoạt động trải nghiệm thì đồng thời phẩm chất, năng lực đã được hình thành (hoặc được mô phỏng) ở trong đầu học sinh.
Lưu ý: Khi thiết kế các hoạt động trải nghiệm, giáo viên nên chú ý các vấn đề sau:
– Tính đầy đủ: Phải đảm đủ các hoạt động để sau khi thực hiện xong các hoạt động thì có đủ các điều kiện để trải nghiệm. Nếu thiếu hoạt động thì sự trải nghiệm chưa hình thành, nếu thừa thì lãng phí hoặc làm rối quy trình kĩ thuật.
– Tính mục đích: Mỗi hành động, thao tác của hoạt động trải nghiệm phải có mục đích rõ ràng. Nếu trải nghiệm không có mục đích thì chẳng có sản phẩm gì.. Khi ấy ta gọi là hoạt động nửa vời, lãng phí công sức.
– Tính thực tiễn: Cần đặc biệt lưu ý các hoạt động giúp cho học sinh: Thực tiễn hóa vấn đề; Nêu và giải quyết vấn đề; Phát hiện – tìm tòi; Phân tích; Khái quát hóa; Trừu tượng hóa; Kiểm tra, đánh giá kết quả, giúp người học điều chỉnh nội dung và cách trải nghiệm, phát triển những ý tưởng mới.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn tổ chức hoạt động trải nghiệm ở tiểu học
Bước 7: Phân bậc hoạt động trải nghiệm làm cơ sở cho việc điều hành hoạt động
Để điều khiển hoạt động trải nghiệm, giáo viên nên xác định đúng mức độ, yêu cầu (mục tiêu) mà học sinh phải đạt được ở mỗi bước trung gian hay là ở mỗi bước cuối cùng của mỗi hoạt động, đây chính là phân bậc hoạt động.
– Căn cứ vào mức độ phức tạp, độ khó của khái niệm, hoặc theo trình tự của quá trình nhận thức của học sinh, giáo viên tổ chức phân bậc từng hoạt theo từng nấc thang, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến phức hợp, từ cụ thể đến trừu tượng và ngược lại.. Nhờ phân bậc được hoạt động trải nghiệm, giáo viên dễ dàng điều khiển quá trình tổ chức trải nghiệm.
Bước 8. Lựa chọn và sử dụng các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức để tổ chức hoạt động trải nghiệm phù hợp với thiết kế
Xuất phát từ khẳng định rằng mỗi nội dung trải nghiệm đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định. Phát hiện được những hoạt động tiềm tàng trong một nội dung là vạch được một con đường để trải nghiệm nội dung đó. Nếu hoạt động trải nghiệm theo kiểu thông báo, tái hiện, thầy đọc, trò chép, ghi nhớ thì học sinh chỉ mới nắm được biểu tượng, mô hình hoặc “rìa” của năng lực, phẩm chất mà thôi. Sản phẩm thu được sau trải nghiệm là tri thức kinh nghiệm, không khoa học, chính cống, vững chắc.
Sau khi đã có bản thiết kế, giáo viên tổ chức cho học sinh tiến hành các hoạt động trải nghiệm theo phân bậc ở trên.
Bước 9. Tổng kết hoạt động, chốt kết quả trải nghiệm Mỗi hoạt động có một hay nhiều mục đích. Sau khi thực hiện các hoạt động, giáo viên có thể tổng kết (Hoặc giao cho nhóm học sinh) các hoạt động trải nghiệm. Giáo viên nên gợi ý cho học sinh tự tổng kết và trình bày kết quả trải nghiệm./.
ThS.CVC. Phạm Phú Cam – Viện NCSP
Có thể bạn quan tâm
Hội thảo khoa học “Trí tuệ nhân tạo trong dạy học Vật lí, Khoa học tự nhiên”
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 tham gia Techfest VinhPhuc 2024
Sôi động Unitour – HPU2 năm 2024